Hội quán này do một nhóm người Phước Kiến (Trung Quốc) đến Hội An sinh sống tạo dựng vào năm 1759.
Hội quán là nơi thờ thần, Tiền hiền và hội họp đồng hương của những người Phước Kiến.
Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An.
Hội An là một thị xã nhỏ bé nằm trên đất Quảng Nam, là nơi chứng kiến hai cuộc giao thoa văn hóa lớn trong lịch sử Việt. Lần thứ nhất là cách đây hơn 5 thế kỷ, khi nước Đại Việt tiến về phương nam mở mang bờ cỏi, và lần thứ hai là cách đây 2 thế kỷ, khi người Phương Tây theo các chiến thuyền và thương thuyền đặt chân lên mảnh đất này với ý đồ truyền bá và thôn tính. Cả hai sự kiện đó đều kéo theo tương tác văn hoá lớn lao và nền văn hóa việt đã vượt qua thử thách đồng hóa để tự cải biến và tồn tại cùng thời cuộc.
Bên cạnh đó Hội An còn là một cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á vào thế kỷ 15 và 16, vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo, là phố cổ duy nhất ở Việt Nam còn giữ được tương ứng nguyên trạng với lối kiến trúc nhà ở truyền thống có niên đại cách đây từ 2 đến 3 trăm năm, xen vào những ngôi nhà ở là những công trình kiến trúc tôn giáo cũng như đền miếu, hội quán… Là nơi có môi trường sinh thái nhân văn rất độc đáo. Bao xung quanh đó là các làng nghề và những cảch sinh hoạt trên sông nước. Đây cũng là di tích của ba cộng đồng người cùng sinh sống là người Việt, Trung Hoa và Nhật Bản.Chính những điều này mà Hội An được UNESCO công nhận di sản văn hóa vào tháng 12 năm 1999.
Sử Trung Hoa kể rằng, vào thế kỷ XVII, năm 1649, ở Trung Quốc, nhà Thanh diệt nhà Minh, lập ra triều Mãn Thanh. Các tướng lĩnh triều Minh không thuần phục, nỗi dậy phản Thanh phục Minh và đã bị thất bại. Nhiều người trong số họ đã đưa gia đình lên tàu vượt biển đến xuống vùng Đông Nam Á, trong đó có Hội An. Họ đã xin Chúa Nguyễn cho phép định cư ở Hội An, và thành lập ở đây làng Minh Hương, đó là những người dến từ 5 bang chính: Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam, Haka hay còn gọi là Hẹ. Vì người Hoa cũng như người Việt sống mang tính cộng đồng rất cao, để có thể đoàn kết cùng nhau buôn bán, tương trợ lẫn nhau khi hoạn nạn mỗi bang đã lập nên cho mình một hội quán. Hội quán Phúc Kiến nỗi tiếng bởi vẻ đẹp nguy nga, tráng lệ, uy nghiêm trong một không gian rộng lớn, kiến trúc đặc sắc kiểu Trung Hoa và sự linh thiêng của nó.
Hội quán Phúc Kiến là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo hộ về sông nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên và là nơi họp đồng hương và giúp dỡ lẫn nhau của người Phúc Kiến, những người đến Hội An sớm nhất và đông nhất. Đây là công trình kiến trúc tiêu biểu tại Hội An được xây dựng vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp của Hoa Kiều bang Hội Quán Phúc Kiến càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô diểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An.
Trước kia nó được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ nhưng đến năm 1757 Hội Quán này được xây dựng lại bằng gạch và mái ngói như quí khách đang thấy. So với các Hội Quán khác ở Hội An như Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam ……Phúc Kiến có không gian rộng và sâu nhất, với lối kiến trúc xưa với kiểu ” Nội công ngoại quốc”, và bộ vì kèo tiền điện theo kiểu “Chồng rường giả thủ”, cùng với nhiều bức chạm lộng, chạm nổi hoa lá, điểu thú rất sinh động. Hội quán được công nhận là di tích loại 1 vào ngày 19/3/1985.
Cổng tam quan, một công trình không thể thiếu trong lối kiến trúc đình , chùa truyền thống. Công trình này được trùng tu vào năm 1975, toàn bộ công trình được khảm bằng sành sứ, phía trên được lợp ngói âm dương với mái cong vút.. Lợp ngói âm dương, thực ra là kiểu lợp ngói của người xưa bao gồm ngói dương và ngói âm. Ngói dương giống như hình cái ống tách đôi, một đầu có chuôi thu nhỏ để luồn vào bên trong viên ngói khác khi lợp nên thường gọi là ngói ống, mặt hướng ra ngoài được phủ men xanh hoặc vàng. Viên dưới cùng dùng để khóa bộ mái, được đúc thêm một cái nắp hình tròn, thường được trang trí hoa văn chử thọ tròn, theo lối triện, gọi là câu đầu. Ngói âm có hình chử nhật uốn cong, trong lòng phủ men một mặt. Khi lợp tráng men hướng lên phía trên, cứ hai viên ngói âm thì có một viên ngói dương phủ lên hoặc ngược lại, cứ hai viên ngói dương thì có một viên ngói âm phủ lên. Viên ngói âm dưới cùng của bộ mái có gắn với một cái yếm, thường trang trí mắt hổ phù, gọi là trích thủy, liên kết với hai viên ngói câu đầu, cùng có chức năng trang trí diền mái và dùng để định hướng giọt nước mưa. Các đầu đao, chúng được bài trí hình con rồng đang uốn lượn, đây là biểu tượng của uy quyền. Trên nóc có tích lưỡng long chầu bình hồ lô, bình này tích sinh khí của trời và đất để làm tăng sức mạnh cho con người. Nhìn lên ở giữa cổng tam quan là 4 chữ hán màu đỏ ” Hội Quán Phúc Kiến”. Còn 3 chữ trên đó là Kim Sơn Tự bởi vì trước kia Hội quán này còn có tên gọi là Kim Sơn Tự. Hai vòng tròn hai bên là thờ ông Nhật và bà Nguyệt – Tượng trưng cho trời và đất, là sự hài hòa âm dương trong vũ trụ.
Có 3 lối đi vào theo kiểu ” nam tả, nữ hữu”, 3 lối đi còn có ý nghĩa là “ Thiên, Địa, Nhân” cánh cửa ở giữa rất ít khi được mở ra, nó chỉ được mở vào những ngày lễ lớn, ma chay, cưới hỏi…Bởi vì theo quan niệm người xưa, nếu cổng chính giữa mở ra thì những sinh khí xấu sẽ đi vào bên trong.
Phía trước là hòn nam bộ với hình tượng cá chép hóa rồng hay còn gọi là cá chép vượt vũ môn. Người Trung hoa có truyền thuyết về cá chép hóa rồng hay cá chép vượt vũ môn như thế này: Một năm, trời hạn hán vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hòa cho khắp mọi nơi, Trời mới đặt ra một kỳ thi kén các vật lên làm Rồng gọi là thi rồng.Khi chiếu trời ban xuống, vua Thủy Tề loan báo cho các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kỳ. mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng. Con vật nào đủ sức đủ tài vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng.
Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thủy tộc đến thi đều bị loại cả. vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau đó cá Rô nhảy được một đợt nhưng đã bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột ,gan, vây, vẩy, râu , đuôi đã gần hóa Rồng, nhưng đến lượt thứ ba thì đuối sức ngã bổ xuống mà lưng đã còng lại. Đến lượt con cá chép vào thi thì gió thổi ào ào, mây kéo ầm trời. Cá chép vượt luôn một hồi qua ba đợt sóng và lọt vào cửa Vũ Môn. Cá Chép đã hóa thành rồng phun nước làm giá táp, mưa sa, muôn loài sung sướng, sự sống đã hồi sinh.
Vì vậy ở Trung Quốc, cá Chép thường xuất hiện ở các câu chúc tết như ” Niên niên hữu dư” nghĩa là hi vọng năm nào củng dư thừa ấm no. Cá chép còn là biểu tượng của sự kiên trì và bền chí.
Ở giữa này là phiên bản Vạn Lý Trường Thành. Còn phía bên còn lại là hình tích của bốn con vật linh thiêng Long, Lân, Quy, Phụng, bên tay phải tôi là con Rồng, đối với các nước phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo có lịch sử lâu đời .Nó có hình dạng kỳ lạ, đầu giống như đầu đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao, mắt giống như mắt thỏ, tai giống như tai bò, chân giống như chân cọp, móng giống như móng chim ưng, vảy rồng giống như vảy cá ly. Rồng là biểu tượng của uy quyền.Tiếp đến là con Lân, nó củng là sản phẩm của trí tưởng tượng, nó có hình như con hươu nhưng lại lớn hơn, mình có vảy, đuôi giống đuôi trâu, chân giống chân ngựa, miệng rộng, mũi to, đầu có 1 sừng, lông trên lưng có 5 màu, lông dưới bụng chỉ có màu vàng, tính rất hiền lành, không đạp lên cỏ tươi, không làm hại các sinh vật khác, nên được gọi là Nhân thú, nghĩa là con thú có lòng nhân từ nó biểu hiện cho sự may mắn. Đây là con rùa, nó tượng trưng cho sự tồn tại và bất diệt. Cuối cùng là hình con chim Phượng, đây là linh vật được biểu hiện cho tầng trên, Phượng thường có mỏ vẹt, chân chim, cổ ngắn.
Bốn con vật này đều rất linh thiêng, mỗi khi có 1 trong 4 con xuất hiện thì nơi ấy ắt có điều lành xảy đến, hoặc có thánh nhân ra đời.
Ngoài ra có 2 Lân bằng tượng đá - Chúng như là người canh giữ cho Hội Quán.
Bước qua cổng tam quan này chúng ta sẽ tham quan các công trình kiến trúc chính của Hội quán như: Tiên đình, chính điện, hậu tẩm….
Ở phía trong tiền đình có một bộ bàn đá. Nó được dùng làm nơi hội họp, bàn bạc làm ăn của các thương dân Phúc Kiến xưa kia. Những vòng hương đang được treo - Đây là một nét nỗi bật của hội quan Phúc Kiến, Tương truyền rằng, Hội Quán Phúc Kiến hay còn gọi là chùa Phúc Kiến rất linh thiêng nên khách hành hương thường hay đến đây và thắp những vòng hương lớn này để cầu chúc sức khoẻ, tài lộc, cho gia đình, bạn bè và cho bản thân. Những vòng hương này được bán ngay tại Hội Quán, nhưng không được phép mang ra ngoài mà phải thắp ngay tại đây. Mỗi vòng hương như vậy cháy trong khoảng 30 ngày. Nếu như có vòng hương nào tắt trước khi cháy hết thì những người trong Hội Quán sẽ thắp lại. Trên các khoanh nhang người cúng thường hay viết một tờ giấy có ghi họ tên đầy đủ của cả gia đình, địa chỉ… để mong muốn được bà phù hộ độ trì cho công ăn việc làm được thuật buồm xuôi gió. Và khi vòng hương cháy hết thì người trong Hội Quán sẽ lấy những mảnh giấy này đốt thành tro. Như vậy lời ước mới linh thiêng.
Phía bên tay phải đó là bức tranh bà Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng với người hầu của bà và một chiếc thuyền gặp nạn.
Còn phía bên bên trái là bức tranh miêu tả 6 vị lục Tướng Vương Gia, 6 vị này được thờ ở trong gian hậu tẩm
Trước bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và bà Thiên Hậu Thánh Mẫu – Nữ thần biển ” Thiên Hậu Thánh Mẫu”. Người đã giúp họ tránh hoạn nạn, giông bão trên bước đường phiêu bạt. Bà là vị thần được đặc biệt coi trọng không những ở nơi đây mà ở tất cả các miếu của người Hoa ở Hội An và những nơi mà người Hoa sinh sống. Vì ngày xưa trên bước đường lưu lạc tứ xứ, người Hoa thường đi bằng tàu thuyền mà theo tương truyền thì bà thiên Hậu là người họ Lâm ở tỉnh Phúc Kiến, lúc nhỏ bà là một đứa bé bị câm. Năm lên tám tuổi bà được một ông tiên cho theo học đạo và đến năm 16 tuổi Bà được ông tiên ban cho phép thần thông hô mưa, gọi gió. Và ông ban cho Bà với điều kiện chỉ làm những việc thiện. Bà được gọi là nữ thần của biển cả, hay nữ thần phù hộ cữu giúp những người đi biển. Người Hoa những khi có việc cầu xin bà phù hộ thường mang lễ vật đến làm lễ dâng hương. Sau đó họ thường cúng cho bà những Khoanh Nhang Đại và họ cũng cúng cho hội quán dầu hỏa để thắp đèn trên bàn thờ của Bà. Những Khoanh Nhang này lớn lắm, có thể cháy đến một năm mới hết. Người trong coi hội quán sẽ lấy lần lượt các khoanh đốt dần, cái nào hết thì treo cái khác lên. Trên các khoanh nhang người ta thường hay viết một tờ giấy có ghi họ tên đầy đủ của cả gia đình, địa chỉ… để mong muốn được bà phù hộ độ trì cho công việc được làm ăn thuộc buồm xuôi gió. Hàng năm vào ngày 26 tháng 2 người Trung Hoa nói chung, và người phúc kiến nói riêng tổ chức lễ vía của bà. Tại đây diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.
Bên phải thờ thần Thiên Lý Nhãn tức là vị thần có tài nhìn xa vạn dặm, và bên phải thờ thần Thuận Phong Nhĩ là vị thần có tài nghe xa nghìn dặm họ là 2 vị thần phụ tá cho bà Thiên Mậu Thánh Mẫu phát hiện những người gặp nạn trên biển để bà cứu giúp.
Bên trái chính diện, người ta trưng bày mô hình chiếc thuyền của các thương nhân gặp nạn dùng để đi biển trước đây có niên đại từ năm 1875 với nhiều chi tiết cụ thể. Điều đáng chú ý nhất trên chiếc thuyền là đôi mắt. Người Hội An quan niệm rằng, con người, con vật đều có mắt để nhìn đời và nhìn vào lòng mình thì các đồ vật gắn với vận mạng của con người cũng phải có mắt. Chính vì thế, chiếc thuyền này được vẽ 2 con mắt hai bên, to và rõ để nhìn thấy những tai ương trên biển khơi.
Phía bên trong 2 Hậu tẩm. Ở giữa có một bàn thờ đây là nơi thờ của 6 vị Lục Tánh Vương Gia, 6 vị này gồm Khâm Vương, Trương Vương, Thuấn Vương, Chu Vương, Hoàng Vương và Thập Tam Vương. 6 vị tướng người Phúc Kiến này dẫn đầu trong phong trào phản Thanh phục Minh, nhưng thất bại nên đã đưa con cháu mình theo đường biển đến Hội An. Hằng năm ở đây có tổ chức ngày giỗ tổ cho 6 vị này vào ngày 16/2 âm lịch, nhưng trước đó một ngày, nhiều người đã đến dâng hương. Hội quán cũng cúng chay , cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, người khỏe mạnh.
Bàn thờ bên phải là nơi thờ tượng lớn của Bà Chúa Sinh Thai, Bà là người nặn ra hình hài đứa trẻ. Hai Bà phái dưới là một Bà khai sinh và một Bà khai tử. Ở dưới thấp là 12 Bà Mụ, mỗi Bà có nhiệm vụ chăm sóc đứa trẻ mỗi tháng trong 12 tháng đầu đầu tiên. Vì thế khi đứa trẻ chưa đầy một năm tuổi, khi chúng cười hay nói gì đó, người ta cho là các Bà dạy, hoặc khi chúng bị té ngã nhưng không bị thương gì, người ta cho rằng có bà Mụ che chở. Chính vị vậy mà người ta thường hay tổ chức thôi nôi hay đầy tháng để tỏ lòng biết ơn các Bà Mụ. Ngày xưa, trong buổi lễ người ta thường hay chuẩn bị 12 miếng trầu, 12 miếng cau để dâng cúng 12 Bà Mụ và có riêng một lá trầu và một quả cau cho Bà Chúa Sinh Thai. Cũng chính vì sự linh thiêng này mà Hội Quán còn là nơi để cho ngững người hiếm muộn về đường con cái đến đây cầu tự.
Còn phía bàn thờ bên trái là nơi thờ Thần Tài. Vị thần bên trái là Thần Tài Trắng hay còn gọi là Phúc Thần, là vị thần ban của cải, phước lộc. Vị thần bên phải là Thần Tài Đen hay còn gọi là Pháp Thần, là vị thần trừng phạt ngững người sử dụng tiền bạc không phù hợp với đạo lý. Đã có rất nhiều người đến đây để thắp hương cầu tài, cầu lộc và rút xăm đầu năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét